VỀ BÀI “CUỐN SÁCH ‘BẮT LỖI' GIÁO SƯ NGUYỄN LÂN MẮC NHIỀU SAI SÓT” CỦA THANH HẰNG (P.I)
HOÀNG TUẤN CÔNG
Ngày 1/9/2017, báo điện tử INFONET (Bộ Thông tin vàTruyền thông) đăng bài “Cuốn sách ‘bắt lỗi’ giáo sư Nguyễn Lân mắc nhiều sai sót” của Thanh Hằng. Dựa vào ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, các giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học, Thanh Hằng cho rằng, tác giả “Từ điển tiếng Việt của GS.Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”, đã “mắc nhiều sai sót”.
Ban đầu, chúng tôi chọn cách im lặng thay câu trả lời, bởi bài viết của Thanh Hằng đã không đảm bảo những nguyên tắc tối thiểu trong tranh luận học thuật (chúng tôi sẽ nói rõ ở đoạn cuối của phần II bài viết). Tuy nhiên, vì không muốn phụ lòng độc giả đã gửi link bài viết của Thanh Hằng và đề nghị phản hồi(*), nên chúng tôi xin có đôi lời thưa lại như sau:
1.Trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, mục “áo rách vẫn giữ lấy tràng”, GS. Nguyễn Lân chú giải “Tràng: cái vạt trước của áo dài”. Chúng tôi không đồng ý, và cho rằng: “Chính xác: “tràng” trong câu tục ngữ này là cái cổ áo chứ không phải vạt trước của áo dài. Nghĩa là, dù áo rách thế nào, cũng phải giữ lấy bộ phận quan trọng nhất của cái áo là cổ áo.
Tác giả bài báo Thanh Hằng khẳng định, “tràng” là “vạt áo”, chứ không có nghĩa nào là “cổ áo”, và dẫn chứng:
“Nhà văn Ngô Văn Phú – người đã dịch số lượng lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc, trong đó có “Tể tướng Lưu Gù,” cho biết, GS. Nguyễn Lân đã không sai. “Lĩnh” mới là cổ áo, còn “tràng” là vạt chiếc áo dài. Trong “Từ điển Hán Nôm” trên thivien.net cũng giải nghĩa “lĩnh là cổ áo”, không thấy có mối liên quan nào giữa “lĩnh” với “tràng”!
Nhà thơ Đỗ Trung Lai, người đã dịch hàng trăm bài thơ Đường, cũng cho hay: Tràng là vạt trước của áo dài.
“Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (tái bản 1992 và 2003) cũng định nghĩa: “Tràng: Vạt trước của áo dài”. Ví dụ: “Níu lấy tràng áo mẹ”.
Từ những “bằng chứng” trên đây, Thanh Hằng đi đến kết luận: “Như vậy, cho đến nay, chưa thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ áo như Hoàng Tuấn Công giải thích”.
Theo chúng tôi, thành tích “đã dịch số lượng lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc” của Nhà văn Ngô Văn Phú, hay “đã dịch hàng trăm bài thơ Đường”của Nhà thơ Đỗ Trung Lai (mà Thanh Hằng giới thiệu), hoàn toàn không phải là luận cứ khoa học cho kết luận “tràng” chỉ có một nghĩa duy nhất là “vạt trước của áo dài”. Và ngay cả khi có tới hai cuốn từ điển giảng “tràng” là “vạt trước của áo dài”, cũng không có nghĩa tất cả các cuốn từ điển còn lại, đều chỉ ghi nhận có vậy.
Sau đây là một số minh chứng của chúng tôi:
- “Từ điển Annam – Lusitan – Latinh” (Dictionanrium Annamiticum – Lusitanum - Latinum (thường gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La”) do A.de Rhodes biên soạn, xuất bản tại Roma (năm 1651; Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch-NXB Khoa học xã hội, 1991), giải nghĩa: “TLÀNG ÁO: Phần trên chiếc áo che cổ.” (“tlàng” là âm cổ của “tràng”, như chính A.de Rhodes ghi nhận trong các trường hợp khác: “TLÀNG HỘT: tràng hột, chuỗi hột”; “TLÀNG HOA: tràng hoa”…-HTC).
- “Đại Nam quấc âm tự vị” (1896), Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi nhận: “Lãnh 領: Tràng; (…) Áo viên lãnh: Áo cổ tròn, áo cổ trịt” (“lãnh” 領chính là âm khác của “lĩnh” 領 - Hán tự nghĩa là cái cổ áo (như chính Nhà văn Ngô Văn Phú đã thừa nhận).
- “Việt Nam tự điển” (1931) Hội Khai Trí Tiến Đức giảng: “領 - lĩnh. Tràng áo (không dùng một mình). Lĩnh tụ 領 袖 tràng áo và tay áo. Chỉ dùng nghĩa bóng để nói người đứng đầu một đảng-phái: Lĩnh-tụ đảng xã hội”.
- “Việt ngữ tinh nghĩa từ điển” (1950) Long Điền Nguyễn Văn Minh giải thích “lãnh” là tràng áo, như “lãnh tụ” là “tràng áo và ống tay áo, chỉ dùng với nghĩa bóng nói người đứng đầu một đảng phái”.
- “Tam thiên tự” (1969), soạn giả Đoàn Trung Còn thích nghĩa: “Y 衣 - Áo; Lãnh 領 - Tràng”.
- Trong “Ngũ thiên tự” (bản Hán - Việt - Pháp), Đoàn Trung Còn chú rõ hơn: “領- lãnh (lĩnh) - tràng (cổ áo) - Col”.
Như vậy, không phải “cho đến nay, chưa thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ áo”, mà ngược lại (và ít nhất) từ 366 năm trước, “Từ điển Việt - Bồ -La” đã ghi nhận “tràng” là “cổ áo”; cũng không phải chỉ có một, mà (ít nhất đến thời điểm này) có tới 6 cuốn từ điển ghi nhận và giải nghĩa “tràng” là “cổ áo”. Thậm chí, chưa cần tới trình độ “dịch hàng trăm bài thơ đường”, mà chỉ cần đọc qua một lượt sách “Tam thiên tự” (Ba ngàn chữ Hán, dùng cho lớp đồng ấu) đã có thể biết, “tràng” (cổ áo) trong tiếng Việt, chính là “lĩnh” 領 trong Hán ngữ.
Theo đây, chúng tôi đâu dám làm một việc tày trời là tự bịa ra cho “tràng” một nghĩa không hề có trong tiếng Việt.
2. Về câu “Áo rách vẫn giữ lấy tràng” (đúng ra là “Áo rách PHẢI giữ lấy tràng”, đồng nghĩa: “Giấy rách phải giữ lấy lề”-HTC), GS. Nguyễn Đức Tồn cho rằng: "Tràng là vạt phía trước của chiếc áo dài, có vai trò quan trọng cả về thẩm mỹ và chức năng che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc nên mới có câu 'Áo rách vẫn giữ lấy tràng.' Còn cổ áo không liên quan gì ở đây".
Thực ra, “tràng” (đầy đủ là “tràng vạt”), cũng có một nghĩa là “vạt trước của áo dài” [trong câu “Sụt sùi giở nỗi đoạn trường, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh.” (TKiều)]. Tuy nhiên, “tràng” trong câu “Áo rách phải giữ lấy tràng” (Áo dù rách ở đâu, nhưng phải giữ cho cái cổ áo được lành lặn); hay “Áo cứ tràng, làng cứ xã” (Áo cứ cổ áo mà cầm; làng cứ lý trưởng mà nắm) lại có nghĩa là “cổ áo”, chứ không phải “vạt áo”.
Tại sao vậy?
Về kết cấu, cổ áo là bộ phận mấu chốt, căn bản nhất của cái áo. Bởi vậy, để cầm nắm cho gọn gàng, giũ cho chiếc áo phẳng phiu, người ta đều phải cầm lấy cổ áo (thế nên “lĩnh tụ” 領袖 [lĩnh = cổ áo; tụ = tay áo] được dùng để chỉ nghĩa người đứng đầu một phong trào, một đảng phái là vậy. Về vấn đề này, chúng tôi đã có bài khảo cứu đăng trên báo “Người lao động” và Blog Tuấn Công Thư phòng-6/2017).
Cổ áo (và vai áo) là phần dễ rách nhất của chiếc áo (do cọ xát, thấm mồ hôi nhiều). Về mặt thẩm mỹ, cổ áo là bộ phận gắn liền với khuôn mặt, trực tiếp tôn vẻ đẹp của khuôn mặt. Điểm nhìn chủ yếu khi giao tiếp, là khuôn mặt, với cái nhìn từ ngực áo trở lên cổ áo, chứ không phải là phần vạt áo. Bởi vậy, một cái áo bị rách cổ, hỏng cổ, coi như bỏ đi, vì nếu mặc, sự rách rưới đó sẽ đập ngay vào mắt người đối diện. Thậm chí, cổ áo tuy lành, nhưng người mặc để xộc xệch, nửa gấp vào trong, nửa lận ra ngoài, sẽ bị coi là ăn mặc luộm thuộm, thiếu tề chỉnh, rất khó coi. Thế nên, áo rách chỗ nào thì rách, đừng để rách cổ. Áo rách cổ, hỏng cổ, kể như không còn là chiếc áo nữa. Nghĩa bóng là dù trong hoàn cảnh nào, sa sút, nghèo khó đến đâu, cũng phải giữ được nề nếp, gia phong, những giá trị cơ bản trong đạo làm người. Thế nên Dân gian còn nói: “Áo rách phải giữ lấy tràng, Đủ đóng đủ góp với làng thì thôi” (Áo dù rách ở đâu, cũng phải giữ được cái cổ áo cho lành lặn; cũng như gia cảnh dù nghèo hèn đến mấy, cũng phải tham gia, đóng góp đầy đủ với công việc chung của làng).
Có thể lấy thêm một ví dụ sinh động về tầm quan trọng của chiếc cổ áo. Với người Mường, các cô con gái thường may sẵn rất nhiều váy áo để dành đến khi lấy chồng. Tuy nhiên, lúc sắp đi làm dâu, thì áo mới được viền cổ, váy mới được tra cạp. Áo chưa làm cổ, coi như chưa thành áo; váy chưa tra cạp, coi như chưa thành váy (dẫu có lúc “bí”, muốn lấy ra mặc, cũng không mặc được). Bởi vậy, thành ngữ Mường “Ào lúa đà t’ra coỏc” (Áo lụa đã viền cổ) chỉ những người con gái đã đi lấy chồng, đã đem những chiếc áo quý, để dành lâu nay ra viền (may, tra) hoàn chỉnh cổ áo để sử dụng. (xem “Thành ngữ Mường” – Cao Sơn Hải – NXB Văn hoá thông tin-2013).
Trong khi đó, vạt áo là bộ phận không bao giờ bị rách trước cổ và vai (vì vạt áo không chịu sự cọ xát khi vận động, cũng không bị thấm mồ hôi mặn). Bởi vậy, nếu áo đã rách vai, rách cổ, thì dẫu không cần “GIỮ”, vạt áo vẫn lành lặn như thường. Mặt khác, xét về phương diện thẩm mỹ và kết cấu, thì vạt áo không phải là điểm nhấn quan trọng nhất của chiếc áo, càng không phải bộ phận mấu chốt của áo. GS Nguyễn Đức Tồn cho rằng vạt áo có “chức năng che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc” là thiếu cơ sở. Vì vạt áo chỉ phủ ở phần ngoài từ cạp quần trở xuống. Theo đó, chức năng che “bộ phận quan trọng nhất của người mặc” chính là cái quần, chứ không phải vạt áo (trừ trường hợp người mặc áo cởi truồng).
Tục ngữ cũng có câu “Áo dài chớ ngại quần thưa”. Trong trường hợp đặc biệt này, toàn bộ phần dưới của chiếc áo dài (chứ không phải mình “tràng” = vạt trước áo dài) sẽ che bớt cái sự “hở hang”, do khiếm khuyết của cái quần thưa, quần rách tạo ra. Dĩ nhiên, lúc này câu tục ngữ phải là “Quần rách (hoặc quần thưa), phải giữ lấy tràng”, chứ không phải “Áo rách phải giữ lấy tràng” nữa.
3. Thanh Hằng viết: “Bàn về thành ngữ: “Chó già, gà non,” Hoàng Tuấn Công cho rằng, GS. Nguyễn Lân giải thích “thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm” là sai, vì theo anh “câu này không có ý khen 2 món ăn đều ngon như cách hiểu của GS. Nguyễn Lân, mà là 2 thứ không ngon. Thịt chó già thì dai nhách, còn gà non thì chỉ để nấu cháo”.
Ở mục này, Thanh Hằng đã trích dẫn không trung thực. Nguyên văn, chúng tôi viết: “Câu này không có ý khen hai món ăn đều ngon như cách hiểu của GS Nguyễn Lân. Ngược lại, chó già, gà non đều là hai thứ không ngon. Chỉ cần xem các quán thịt chó trương tấm biển Cầy tơ bảy món cũng đủ hiểu. Cầy tơ chính là thịt con chó tơ. Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ phù hợp để nấu cháo”.
Theo đó, Thanh Hằng đã tự ý chỉnh sửa từ ngữ, nội dung đoạn trích (được đưa vào ngoặc kép), đồng thời bỏ hẳn đi hai câu rất quan trọng trong lập luận của chúng tôi. Nghĩa là để phản biện ý cho rằng, “chó già” mới ngon, chúng tôi đã dẫn chứng lời chào mời hấp dẫn của các nhà hàng Cầy tơ bảy món. Đây là cứ liệu rất quan trọng, vì nó cho thấy kinh nghiệm ẩm thực này đã được số đông thừa nhận; thịt “chó già” không bao giờ được ưa chuộng. Có nghĩa, nếu GS Nguyễn Lân đúng, thì tất cả các nhà hàng thịt chó phải đổi tấm biển “Cầy tơ bảy món”, thành “Chó già bảy món” mới phải. Tuy nhiên, khi trích dẫn, Thanh Hằng đã bỏ ý này đi, khiến lý lẽ của chúng tôi thiếu sức thuyết phục.
Câu “Ngược lại, chó già, gà non đều là hai thứ không ngon” của chúng tôi, bị Thanh Hằng diễn đạt lại thành “MÀ LÀ 2 thứ không ngon”. Tiếp đến, hai câu “Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ PHÙ HỢP để nấu cháo”, của chúng tôi, bị Thanh Hằng sửa thành “Thịt chó già THÌ dai nhách, còn gà non THÌ chỉ để nấu cháo”. Chúng tôi đâu có viết “MÀ LÀ”, đâu có dùng hai chữ “THÌ” trong cùng một câu, lủng củng như Thanh Hằng trích dẫn? Mấy chữ “CHỈ PHÙ HỢP” cẩn trọng của chúng tôi, qua ngòi bút của Thanh Hằng, bỗng trở thành “chỉ để”. Mặt khác, "Chó già, gà non" chúng tôi xếp vào loại "tục ngữ", chứ không phải "thành ngữ", như Thanh Hằng viết.
4. Thanh Hằng viết: “Các nhà văn Hà Phạm Phú, Ngô Văn Phú và Văn Chinh đều cho rằng “Chó già, gà non” là thành ngữ nói về ẩm thực. Việc Hoàng Tuấn Công áp đặt thêm vào từ “thiến”, thành câu “Chó thiến già, gà thiến non” thật khó thuyết phục!”
Thực ra, “Hoàng Tuấn Công” đâu dám tự tiện “áp đặt thêm” cho câu tục ngữ dân gian “từ thiến”! Bằng cứ, nếu các vị chịu khó gõ câu tục ngữ “Chó thiến già, gà thiến non” vào google, thì sẽ ra hàng loạt kết quả trùng khớp văn bản tục ngữ và nghĩa mà chúng tôi đã giải thích. Ngoài ra, “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2010) cũng thu thập dị bản “Chó già, gà non”, sau đó hướng dẫn độc giả xem cách giải thích dị bản đồng nghĩa “Chó hoạn già, gà hoạn non: chó thì nên hoạn khi đã già; gà thì nên hoạn khi còn non (mới mong khỏi bị lại giống)”.
5. Thanh Hằng viết: “Theo GS. Nguyễn Đức Tồn, “Chó già, gà non” là câu khá mơ hồ nếu tách khỏi ngữ cảnh. Nếu nói về ích lợi thì có thể hiểu là nên chọn chó già vì có kinh nghiệm trông giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn. Nếu nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy và ngon; gà tơ ăn mới ngon. Như vậy, tùy theo ngữ cảnh mà vận dụng”.
Tuy nhiên, “Chó già, gà non” chỉ “mơ hồ” đối với người không hiểu kinh nghiệm sản xuất của nông dân, chứ không hề mơ hồ đối với chính người nông dân, hoặc với những ai đã từng am hiểu thực tế.
Đối với chó, thông thường người ta chỉ thiến khi nó đã ở độ tuổi thành thục (đã biết giao phối tốt). Vì theo kinh nghiệm dân gian, lúc này, bộ phận tinh hoàn và mào tinh hoàn của chó đã phát triển đầy đủ, rõ ràng, dễ bóc gọn, lấy hết. Trong khi, nếu chó thiến non, lúc này tinh hoàn chưa phát triển đầy đủ, mào tinh hoàn (còn gọi "tinh hoàn phụ") chưa có (vì nó phát triển chậm hơn tinh hoàn). Thế nên, dẫu bóc được tinh hoàn non rồi (điều này rất khó), thì mào tinh hoàn (sẽ hình thành sau này), vẫn kích thích tính hăng và ham muốn giao phối của con chó đực (cho dù chó không còn khả năng truyền giống). Bởi vậy, với chó thì phải “thiến già” mới tốt.
Với gà, dân gian thường thiến non (cụ thể lúc mào gà bắt đầu có màu đỏ tía, cất tiếng gáy te te, muốn “đạp mái”). Lúc này, “dái gà” đã hình thành đầy đủ, nhưng hệ thống mạch máu và các dây chằng chưa nhiều; khoảng cách từ vết mổ đến vị trí “trứng dái” hãy còn đủ ngắn để với ngón tay đến mà moi nó ra một cách trọn vẹn, ít gây đau và mất máu cho gà.
Ngược lại, nếu để gà già rồi mới thiến, lúc này các tổ chức như dây chằng, mạch máu ở cuống “dái gà” đã phát triển, rất dai và chắc. Gà già (đã to lớn), nên khoảng cách từ vết mổ đến buồng “trứng dái” cũng đã xa, ngón tay với vào rất khó chạm đến nơi (khi thiến gà, người ta thực hiện theo phương pháp “nội soi”, tức thò ngón tay vào moi “dái gà” bên trong, chứ không thực hiện “mổ phanh” bên ngoài như thiến chó).
Bởi vậy, nếu thiến gà già (“trứng dái” to, cuống dai), khi “cấu” được hai hòn “dái gà” ra, thì hay bị sứt, bị sót. Thậm chí có những con gà thiến già, bị chảy máu trong nhiều, bỏ ăn, rồi chết. Trong khi đối với chó, kể cả những con chó đã “đi đực” nhiều năm, lang thang khắp làng trên xóm dưới, người ta sợ mất, mới đem thiến, vẫn rất an toàn.
Mặt khác, đối với gà, nếu xác định không để làm giống, thì người ta phải thiến sớm để vỗ béo, chứ không ai để gà già, đi đạp mái khắp xóm, rồi mới thiến. Với những con trống già loại thải, thì người ta thịt luôn, chứ không ai còn đem thiến để vỗ béo nữa.
“Chó già, gà non” (“Chó thiến già, gà thiến non”) là vậy.
Do đã thuộc “nằm lòng” ý nghĩa câu tục ngữ, nên dân gian tạo ra dị bản rút gọn, chỉ còn mang tính quy ước “Chó già, gà non”, thay vì “Chó thiến già, gà thiến non”. Giống như câu “Khôn chi khôn trẻ, khoẻ chi khoẻ già”, được rút gọn thành “Khôn trẻ, khoẻ già”. Những câu này chỉ “mơ hồ” đối với người không hiểu mà thôi!
Tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất được đúc kết từ thực tế sản xuất của nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được nó, phải dùng chính kinh nghiệm thực tế ấy để soi sáng, chứ không thể ngồi mà đoán già, đoán non được. Theo đó, chính cách gán cho tục ngữ “Chó già, gà non” một số nghĩa như: “nên chọn chó già vì có kinh nghiệm trông giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn”; hay “nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy và ngon”của GS Nguyễn Đức Tồn mới là “mơ hồ”.
Vì sao vậy?
Vì trông giữ nhà là bản năng của con chó nhà. Hễ thấy người lạ, từ chó con đến chó lớn, chó tơ đến chó già đều sủa vang; vừa sủa vừa xông vào cắn dữ dội, “đẩy lùi” sự “xâm nhập” của kẻ lạ mặt. Bởi vậy, đâu cần phải đợi đến lúc già, con chó mới “tích luỹ” được “kinh nghiệm trông giữ nhà”? Mặt khác, giống “chó ta” đa phần đều chỉ luyến chủ, quen nhà, khi được chủ nuôi từ nhỏ. Không ai đi chọn mua con chó già nhà khác về để nuôi giữ nhà, với mục đich khai thác "kinh nghiệm trông giữ nhà" của nó, như cách tưởng tượng của GS Nguyễn Đức Tồn.
Với nuôi gà cũng tuỳ. Nếu ấp nuôi từ gà con lên, sẽ giảm tiền mua giống, nhưng tỉ lệ hao hụt đầu con lớn (vì gia súc, gia cầm non dễ chết); trong khi nếu mua loại gà nhỡ, hay đã mọc đuôi tôm về nuôi, thì tỉ lệ chết sẽ ít, nhưng tiền đầu tư giống lại cao. Bởi vậy, không có căn cứ để nói “gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn”.
Tóm lại, nếu quý vị đem câu tục ngữ “Chó già, gà non” (“Chó thiến già, gà thiến non”)-một kinh nghiệm thiến chó, thiến gà-để áp dụng cho “văn hoá ẩm thực”, chúng tôi không phản đối. Vì đó là sở thích ăn uống riêng của quý vị. Nhưng nếu nói rằng, dân gian đã truyền dạy kinh nghiệm ăn uống như vậy, thì trước sau chúng tôi vẫn bảo lưu ý kiến: dân gian không dại dột như thế. Những món khoái khẩu từ ngàn đời mà dân gian đã tổng kết, chính là “Cầy tơ bảy món”, “Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà nhảy ổ đẻ”. Còn “Chó già, gà non” đơn giản chỉ là kinh nghiệm lựa chọn thời điểm thiến chó, thiến gà mà thôi!
HTC/9/2017
(*)-Bài viết “CUỐN SÁCH ‘BẮT LỖI” GIÁO SƯ NGUYỄN LÂN MẮC NHIỀU SAI SÓT” của Thanh Hằng vốn trước đó đã được gửi cho GS Nguyễn Lân Dũng; GS Nguyễn Lân Dũng gửi cho nhiều người; nhiều người lại “chuyển tiếp” cho chúng tôi. Sau khi bài chính thức đăng trên INFONET, và trang cá nhân của Thanh Hằng (FB Hằng Thanh), bạn đọc lại tiếp tục dẫn link bài đề nghị chúng tôi có phản hồi. Bởi vậy, chúng tôi có bài viết này, mục đích thưa lại cho rõ.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Ngày 1/9/2017, báo điện tử INFONET (Bộ Thông tin vàTruyền thông) đăng bài “Cuốn sách ‘bắt lỗi’ giáo sư Nguyễn Lân mắc nhiều sai sót” của Thanh Hằng. Dựa vào ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, các giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học, Thanh Hằng cho rằng, tác giả “Từ điển tiếng Việt của GS.Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”, đã “mắc nhiều sai sót”.
Ban đầu, chúng tôi chọn cách im lặng thay câu trả lời, bởi bài viết của Thanh Hằng đã không đảm bảo những nguyên tắc tối thiểu trong tranh luận học thuật (chúng tôi sẽ nói rõ ở đoạn cuối của phần II bài viết). Tuy nhiên, vì không muốn phụ lòng độc giả đã gửi link bài viết của Thanh Hằng và đề nghị phản hồi(*), nên chúng tôi xin có đôi lời thưa lại như sau:
1.Trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, mục “áo rách vẫn giữ lấy tràng”, GS. Nguyễn Lân chú giải “Tràng: cái vạt trước của áo dài”. Chúng tôi không đồng ý, và cho rằng: “Chính xác: “tràng” trong câu tục ngữ này là cái cổ áo chứ không phải vạt trước của áo dài. Nghĩa là, dù áo rách thế nào, cũng phải giữ lấy bộ phận quan trọng nhất của cái áo là cổ áo.
Tác giả bài báo Thanh Hằng khẳng định, “tràng” là “vạt áo”, chứ không có nghĩa nào là “cổ áo”, và dẫn chứng:
“Nhà văn Ngô Văn Phú – người đã dịch số lượng lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc, trong đó có “Tể tướng Lưu Gù,” cho biết, GS. Nguyễn Lân đã không sai. “Lĩnh” mới là cổ áo, còn “tràng” là vạt chiếc áo dài. Trong “Từ điển Hán Nôm” trên thivien.net cũng giải nghĩa “lĩnh là cổ áo”, không thấy có mối liên quan nào giữa “lĩnh” với “tràng”!
Nhà thơ Đỗ Trung Lai, người đã dịch hàng trăm bài thơ Đường, cũng cho hay: Tràng là vạt trước của áo dài.
“Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (tái bản 1992 và 2003) cũng định nghĩa: “Tràng: Vạt trước của áo dài”. Ví dụ: “Níu lấy tràng áo mẹ”.
Từ những “bằng chứng” trên đây, Thanh Hằng đi đến kết luận: “Như vậy, cho đến nay, chưa thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ áo như Hoàng Tuấn Công giải thích”.
Theo chúng tôi, thành tích “đã dịch số lượng lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc” của Nhà văn Ngô Văn Phú, hay “đã dịch hàng trăm bài thơ Đường”của Nhà thơ Đỗ Trung Lai (mà Thanh Hằng giới thiệu), hoàn toàn không phải là luận cứ khoa học cho kết luận “tràng” chỉ có một nghĩa duy nhất là “vạt trước của áo dài”. Và ngay cả khi có tới hai cuốn từ điển giảng “tràng” là “vạt trước của áo dài”, cũng không có nghĩa tất cả các cuốn từ điển còn lại, đều chỉ ghi nhận có vậy.
Sau đây là một số minh chứng của chúng tôi:
- “Từ điển Annam – Lusitan – Latinh” (Dictionanrium Annamiticum – Lusitanum - Latinum (thường gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La”) do A.de Rhodes biên soạn, xuất bản tại Roma (năm 1651; Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch-NXB Khoa học xã hội, 1991), giải nghĩa: “TLÀNG ÁO: Phần trên chiếc áo che cổ.” (“tlàng” là âm cổ của “tràng”, như chính A.de Rhodes ghi nhận trong các trường hợp khác: “TLÀNG HỘT: tràng hột, chuỗi hột”; “TLÀNG HOA: tràng hoa”…-HTC).
- “Đại Nam quấc âm tự vị” (1896), Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi nhận: “Lãnh 領: Tràng; (…) Áo viên lãnh: Áo cổ tròn, áo cổ trịt” (“lãnh” 領chính là âm khác của “lĩnh” 領 - Hán tự nghĩa là cái cổ áo (như chính Nhà văn Ngô Văn Phú đã thừa nhận).
- “Việt Nam tự điển” (1931) Hội Khai Trí Tiến Đức giảng: “領 - lĩnh. Tràng áo (không dùng một mình). Lĩnh tụ 領 袖 tràng áo và tay áo. Chỉ dùng nghĩa bóng để nói người đứng đầu một đảng-phái: Lĩnh-tụ đảng xã hội”.
- “Việt ngữ tinh nghĩa từ điển” (1950) Long Điền Nguyễn Văn Minh giải thích “lãnh” là tràng áo, như “lãnh tụ” là “tràng áo và ống tay áo, chỉ dùng với nghĩa bóng nói người đứng đầu một đảng phái”.
- “Tam thiên tự” (1969), soạn giả Đoàn Trung Còn thích nghĩa: “Y 衣 - Áo; Lãnh 領 - Tràng”.
- Trong “Ngũ thiên tự” (bản Hán - Việt - Pháp), Đoàn Trung Còn chú rõ hơn: “領- lãnh (lĩnh) - tràng (cổ áo) - Col”.
Như vậy, không phải “cho đến nay, chưa thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ áo”, mà ngược lại (và ít nhất) từ 366 năm trước, “Từ điển Việt - Bồ -La” đã ghi nhận “tràng” là “cổ áo”; cũng không phải chỉ có một, mà (ít nhất đến thời điểm này) có tới 6 cuốn từ điển ghi nhận và giải nghĩa “tràng” là “cổ áo”. Thậm chí, chưa cần tới trình độ “dịch hàng trăm bài thơ đường”, mà chỉ cần đọc qua một lượt sách “Tam thiên tự” (Ba ngàn chữ Hán, dùng cho lớp đồng ấu) đã có thể biết, “tràng” (cổ áo) trong tiếng Việt, chính là “lĩnh” 領 trong Hán ngữ.
Theo đây, chúng tôi đâu dám làm một việc tày trời là tự bịa ra cho “tràng” một nghĩa không hề có trong tiếng Việt.
2. Về câu “Áo rách vẫn giữ lấy tràng” (đúng ra là “Áo rách PHẢI giữ lấy tràng”, đồng nghĩa: “Giấy rách phải giữ lấy lề”-HTC), GS. Nguyễn Đức Tồn cho rằng: "Tràng là vạt phía trước của chiếc áo dài, có vai trò quan trọng cả về thẩm mỹ và chức năng che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc nên mới có câu 'Áo rách vẫn giữ lấy tràng.' Còn cổ áo không liên quan gì ở đây".
Thực ra, “tràng” (đầy đủ là “tràng vạt”), cũng có một nghĩa là “vạt trước của áo dài” [trong câu “Sụt sùi giở nỗi đoạn trường, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh.” (TKiều)]. Tuy nhiên, “tràng” trong câu “Áo rách phải giữ lấy tràng” (Áo dù rách ở đâu, nhưng phải giữ cho cái cổ áo được lành lặn); hay “Áo cứ tràng, làng cứ xã” (Áo cứ cổ áo mà cầm; làng cứ lý trưởng mà nắm) lại có nghĩa là “cổ áo”, chứ không phải “vạt áo”.
Tại sao vậy?
Về kết cấu, cổ áo là bộ phận mấu chốt, căn bản nhất của cái áo. Bởi vậy, để cầm nắm cho gọn gàng, giũ cho chiếc áo phẳng phiu, người ta đều phải cầm lấy cổ áo (thế nên “lĩnh tụ” 領袖 [lĩnh = cổ áo; tụ = tay áo] được dùng để chỉ nghĩa người đứng đầu một phong trào, một đảng phái là vậy. Về vấn đề này, chúng tôi đã có bài khảo cứu đăng trên báo “Người lao động” và Blog Tuấn Công Thư phòng-6/2017).
Cổ áo (và vai áo) là phần dễ rách nhất của chiếc áo (do cọ xát, thấm mồ hôi nhiều). Về mặt thẩm mỹ, cổ áo là bộ phận gắn liền với khuôn mặt, trực tiếp tôn vẻ đẹp của khuôn mặt. Điểm nhìn chủ yếu khi giao tiếp, là khuôn mặt, với cái nhìn từ ngực áo trở lên cổ áo, chứ không phải là phần vạt áo. Bởi vậy, một cái áo bị rách cổ, hỏng cổ, coi như bỏ đi, vì nếu mặc, sự rách rưới đó sẽ đập ngay vào mắt người đối diện. Thậm chí, cổ áo tuy lành, nhưng người mặc để xộc xệch, nửa gấp vào trong, nửa lận ra ngoài, sẽ bị coi là ăn mặc luộm thuộm, thiếu tề chỉnh, rất khó coi. Thế nên, áo rách chỗ nào thì rách, đừng để rách cổ. Áo rách cổ, hỏng cổ, kể như không còn là chiếc áo nữa. Nghĩa bóng là dù trong hoàn cảnh nào, sa sút, nghèo khó đến đâu, cũng phải giữ được nề nếp, gia phong, những giá trị cơ bản trong đạo làm người. Thế nên Dân gian còn nói: “Áo rách phải giữ lấy tràng, Đủ đóng đủ góp với làng thì thôi” (Áo dù rách ở đâu, cũng phải giữ được cái cổ áo cho lành lặn; cũng như gia cảnh dù nghèo hèn đến mấy, cũng phải tham gia, đóng góp đầy đủ với công việc chung của làng).
Có thể lấy thêm một ví dụ sinh động về tầm quan trọng của chiếc cổ áo. Với người Mường, các cô con gái thường may sẵn rất nhiều váy áo để dành đến khi lấy chồng. Tuy nhiên, lúc sắp đi làm dâu, thì áo mới được viền cổ, váy mới được tra cạp. Áo chưa làm cổ, coi như chưa thành áo; váy chưa tra cạp, coi như chưa thành váy (dẫu có lúc “bí”, muốn lấy ra mặc, cũng không mặc được). Bởi vậy, thành ngữ Mường “Ào lúa đà t’ra coỏc” (Áo lụa đã viền cổ) chỉ những người con gái đã đi lấy chồng, đã đem những chiếc áo quý, để dành lâu nay ra viền (may, tra) hoàn chỉnh cổ áo để sử dụng. (xem “Thành ngữ Mường” – Cao Sơn Hải – NXB Văn hoá thông tin-2013).
Trong khi đó, vạt áo là bộ phận không bao giờ bị rách trước cổ và vai (vì vạt áo không chịu sự cọ xát khi vận động, cũng không bị thấm mồ hôi mặn). Bởi vậy, nếu áo đã rách vai, rách cổ, thì dẫu không cần “GIỮ”, vạt áo vẫn lành lặn như thường. Mặt khác, xét về phương diện thẩm mỹ và kết cấu, thì vạt áo không phải là điểm nhấn quan trọng nhất của chiếc áo, càng không phải bộ phận mấu chốt của áo. GS Nguyễn Đức Tồn cho rằng vạt áo có “chức năng che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc” là thiếu cơ sở. Vì vạt áo chỉ phủ ở phần ngoài từ cạp quần trở xuống. Theo đó, chức năng che “bộ phận quan trọng nhất của người mặc” chính là cái quần, chứ không phải vạt áo (trừ trường hợp người mặc áo cởi truồng).
Tục ngữ cũng có câu “Áo dài chớ ngại quần thưa”. Trong trường hợp đặc biệt này, toàn bộ phần dưới của chiếc áo dài (chứ không phải mình “tràng” = vạt trước áo dài) sẽ che bớt cái sự “hở hang”, do khiếm khuyết của cái quần thưa, quần rách tạo ra. Dĩ nhiên, lúc này câu tục ngữ phải là “Quần rách (hoặc quần thưa), phải giữ lấy tràng”, chứ không phải “Áo rách phải giữ lấy tràng” nữa.
3. Thanh Hằng viết: “Bàn về thành ngữ: “Chó già, gà non,” Hoàng Tuấn Công cho rằng, GS. Nguyễn Lân giải thích “thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm” là sai, vì theo anh “câu này không có ý khen 2 món ăn đều ngon như cách hiểu của GS. Nguyễn Lân, mà là 2 thứ không ngon. Thịt chó già thì dai nhách, còn gà non thì chỉ để nấu cháo”.
Ở mục này, Thanh Hằng đã trích dẫn không trung thực. Nguyên văn, chúng tôi viết: “Câu này không có ý khen hai món ăn đều ngon như cách hiểu của GS Nguyễn Lân. Ngược lại, chó già, gà non đều là hai thứ không ngon. Chỉ cần xem các quán thịt chó trương tấm biển Cầy tơ bảy món cũng đủ hiểu. Cầy tơ chính là thịt con chó tơ. Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ phù hợp để nấu cháo”.
Theo đó, Thanh Hằng đã tự ý chỉnh sửa từ ngữ, nội dung đoạn trích (được đưa vào ngoặc kép), đồng thời bỏ hẳn đi hai câu rất quan trọng trong lập luận của chúng tôi. Nghĩa là để phản biện ý cho rằng, “chó già” mới ngon, chúng tôi đã dẫn chứng lời chào mời hấp dẫn của các nhà hàng Cầy tơ bảy món. Đây là cứ liệu rất quan trọng, vì nó cho thấy kinh nghiệm ẩm thực này đã được số đông thừa nhận; thịt “chó già” không bao giờ được ưa chuộng. Có nghĩa, nếu GS Nguyễn Lân đúng, thì tất cả các nhà hàng thịt chó phải đổi tấm biển “Cầy tơ bảy món”, thành “Chó già bảy món” mới phải. Tuy nhiên, khi trích dẫn, Thanh Hằng đã bỏ ý này đi, khiến lý lẽ của chúng tôi thiếu sức thuyết phục.
Câu “Ngược lại, chó già, gà non đều là hai thứ không ngon” của chúng tôi, bị Thanh Hằng diễn đạt lại thành “MÀ LÀ 2 thứ không ngon”. Tiếp đến, hai câu “Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ PHÙ HỢP để nấu cháo”, của chúng tôi, bị Thanh Hằng sửa thành “Thịt chó già THÌ dai nhách, còn gà non THÌ chỉ để nấu cháo”. Chúng tôi đâu có viết “MÀ LÀ”, đâu có dùng hai chữ “THÌ” trong cùng một câu, lủng củng như Thanh Hằng trích dẫn? Mấy chữ “CHỈ PHÙ HỢP” cẩn trọng của chúng tôi, qua ngòi bút của Thanh Hằng, bỗng trở thành “chỉ để”. Mặt khác, "Chó già, gà non" chúng tôi xếp vào loại "tục ngữ", chứ không phải "thành ngữ", như Thanh Hằng viết.
4. Thanh Hằng viết: “Các nhà văn Hà Phạm Phú, Ngô Văn Phú và Văn Chinh đều cho rằng “Chó già, gà non” là thành ngữ nói về ẩm thực. Việc Hoàng Tuấn Công áp đặt thêm vào từ “thiến”, thành câu “Chó thiến già, gà thiến non” thật khó thuyết phục!”
Thực ra, “Hoàng Tuấn Công” đâu dám tự tiện “áp đặt thêm” cho câu tục ngữ dân gian “từ thiến”! Bằng cứ, nếu các vị chịu khó gõ câu tục ngữ “Chó thiến già, gà thiến non” vào google, thì sẽ ra hàng loạt kết quả trùng khớp văn bản tục ngữ và nghĩa mà chúng tôi đã giải thích. Ngoài ra, “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2010) cũng thu thập dị bản “Chó già, gà non”, sau đó hướng dẫn độc giả xem cách giải thích dị bản đồng nghĩa “Chó hoạn già, gà hoạn non: chó thì nên hoạn khi đã già; gà thì nên hoạn khi còn non (mới mong khỏi bị lại giống)”.
5. Thanh Hằng viết: “Theo GS. Nguyễn Đức Tồn, “Chó già, gà non” là câu khá mơ hồ nếu tách khỏi ngữ cảnh. Nếu nói về ích lợi thì có thể hiểu là nên chọn chó già vì có kinh nghiệm trông giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn. Nếu nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy và ngon; gà tơ ăn mới ngon. Như vậy, tùy theo ngữ cảnh mà vận dụng”.
Tuy nhiên, “Chó già, gà non” chỉ “mơ hồ” đối với người không hiểu kinh nghiệm sản xuất của nông dân, chứ không hề mơ hồ đối với chính người nông dân, hoặc với những ai đã từng am hiểu thực tế.
Đối với chó, thông thường người ta chỉ thiến khi nó đã ở độ tuổi thành thục (đã biết giao phối tốt). Vì theo kinh nghiệm dân gian, lúc này, bộ phận tinh hoàn và mào tinh hoàn của chó đã phát triển đầy đủ, rõ ràng, dễ bóc gọn, lấy hết. Trong khi, nếu chó thiến non, lúc này tinh hoàn chưa phát triển đầy đủ, mào tinh hoàn (còn gọi "tinh hoàn phụ") chưa có (vì nó phát triển chậm hơn tinh hoàn). Thế nên, dẫu bóc được tinh hoàn non rồi (điều này rất khó), thì mào tinh hoàn (sẽ hình thành sau này), vẫn kích thích tính hăng và ham muốn giao phối của con chó đực (cho dù chó không còn khả năng truyền giống). Bởi vậy, với chó thì phải “thiến già” mới tốt.
Với gà, dân gian thường thiến non (cụ thể lúc mào gà bắt đầu có màu đỏ tía, cất tiếng gáy te te, muốn “đạp mái”). Lúc này, “dái gà” đã hình thành đầy đủ, nhưng hệ thống mạch máu và các dây chằng chưa nhiều; khoảng cách từ vết mổ đến vị trí “trứng dái” hãy còn đủ ngắn để với ngón tay đến mà moi nó ra một cách trọn vẹn, ít gây đau và mất máu cho gà.
Ngược lại, nếu để gà già rồi mới thiến, lúc này các tổ chức như dây chằng, mạch máu ở cuống “dái gà” đã phát triển, rất dai và chắc. Gà già (đã to lớn), nên khoảng cách từ vết mổ đến buồng “trứng dái” cũng đã xa, ngón tay với vào rất khó chạm đến nơi (khi thiến gà, người ta thực hiện theo phương pháp “nội soi”, tức thò ngón tay vào moi “dái gà” bên trong, chứ không thực hiện “mổ phanh” bên ngoài như thiến chó).
Bởi vậy, nếu thiến gà già (“trứng dái” to, cuống dai), khi “cấu” được hai hòn “dái gà” ra, thì hay bị sứt, bị sót. Thậm chí có những con gà thiến già, bị chảy máu trong nhiều, bỏ ăn, rồi chết. Trong khi đối với chó, kể cả những con chó đã “đi đực” nhiều năm, lang thang khắp làng trên xóm dưới, người ta sợ mất, mới đem thiến, vẫn rất an toàn.
Mặt khác, đối với gà, nếu xác định không để làm giống, thì người ta phải thiến sớm để vỗ béo, chứ không ai để gà già, đi đạp mái khắp xóm, rồi mới thiến. Với những con trống già loại thải, thì người ta thịt luôn, chứ không ai còn đem thiến để vỗ béo nữa.
“Chó già, gà non” (“Chó thiến già, gà thiến non”) là vậy.
Do đã thuộc “nằm lòng” ý nghĩa câu tục ngữ, nên dân gian tạo ra dị bản rút gọn, chỉ còn mang tính quy ước “Chó già, gà non”, thay vì “Chó thiến già, gà thiến non”. Giống như câu “Khôn chi khôn trẻ, khoẻ chi khoẻ già”, được rút gọn thành “Khôn trẻ, khoẻ già”. Những câu này chỉ “mơ hồ” đối với người không hiểu mà thôi!
Tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất được đúc kết từ thực tế sản xuất của nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được nó, phải dùng chính kinh nghiệm thực tế ấy để soi sáng, chứ không thể ngồi mà đoán già, đoán non được. Theo đó, chính cách gán cho tục ngữ “Chó già, gà non” một số nghĩa như: “nên chọn chó già vì có kinh nghiệm trông giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn”; hay “nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy và ngon”của GS Nguyễn Đức Tồn mới là “mơ hồ”.
Vì sao vậy?
Vì trông giữ nhà là bản năng của con chó nhà. Hễ thấy người lạ, từ chó con đến chó lớn, chó tơ đến chó già đều sủa vang; vừa sủa vừa xông vào cắn dữ dội, “đẩy lùi” sự “xâm nhập” của kẻ lạ mặt. Bởi vậy, đâu cần phải đợi đến lúc già, con chó mới “tích luỹ” được “kinh nghiệm trông giữ nhà”? Mặt khác, giống “chó ta” đa phần đều chỉ luyến chủ, quen nhà, khi được chủ nuôi từ nhỏ. Không ai đi chọn mua con chó già nhà khác về để nuôi giữ nhà, với mục đich khai thác "kinh nghiệm trông giữ nhà" của nó, như cách tưởng tượng của GS Nguyễn Đức Tồn.
Với nuôi gà cũng tuỳ. Nếu ấp nuôi từ gà con lên, sẽ giảm tiền mua giống, nhưng tỉ lệ hao hụt đầu con lớn (vì gia súc, gia cầm non dễ chết); trong khi nếu mua loại gà nhỡ, hay đã mọc đuôi tôm về nuôi, thì tỉ lệ chết sẽ ít, nhưng tiền đầu tư giống lại cao. Bởi vậy, không có căn cứ để nói “gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn”.
Tóm lại, nếu quý vị đem câu tục ngữ “Chó già, gà non” (“Chó thiến già, gà thiến non”)-một kinh nghiệm thiến chó, thiến gà-để áp dụng cho “văn hoá ẩm thực”, chúng tôi không phản đối. Vì đó là sở thích ăn uống riêng của quý vị. Nhưng nếu nói rằng, dân gian đã truyền dạy kinh nghiệm ăn uống như vậy, thì trước sau chúng tôi vẫn bảo lưu ý kiến: dân gian không dại dột như thế. Những món khoái khẩu từ ngàn đời mà dân gian đã tổng kết, chính là “Cầy tơ bảy món”, “Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà nhảy ổ đẻ”. Còn “Chó già, gà non” đơn giản chỉ là kinh nghiệm lựa chọn thời điểm thiến chó, thiến gà mà thôi!
HTC/9/2017
(*)-Bài viết “CUỐN SÁCH ‘BẮT LỖI” GIÁO SƯ NGUYỄN LÂN MẮC NHIỀU SAI SÓT” của Thanh Hằng vốn trước đó đã được gửi cho GS Nguyễn Lân Dũng; GS Nguyễn Lân Dũng gửi cho nhiều người; nhiều người lại “chuyển tiếp” cho chúng tôi. Sau khi bài chính thức đăng trên INFONET, và trang cá nhân của Thanh Hằng (FB Hằng Thanh), bạn đọc lại tiếp tục dẫn link bài đề nghị chúng tôi có phản hồi. Bởi vậy, chúng tôi có bài viết này, mục đích thưa lại cho rõ.
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa